Tin tức - Sự kiện

TTSK – Một số nét chính về kinh tế Rumani & thương mại hai chiều Rumani-Việt nam năm 2019

7:00 chiều | 07/07/2020

 

 I/ TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI RUMANI NĂM 2019 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2020

 

1 – Tình hình kinh tế, xã hội Rumani 2019:

 

1.1 – Những điểm nổi bật về  chính trị, xã hội năm 2019

   Mặc dù phải tập trung nguồn lực để đảm đương trọng trách Chủ tịch luân phiên Hội đồng châu Âu (European Council) 06 tháng đầu năm 2019, song tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Rumani những tháng đầu năm 2019 vẫn luôn tiềm ẩn những rủi ro, bất ổn khó lường do căng thẳng giữa liên minh cầm quyền PSD – ALDE  với các đảng phái đối lập mà nguyên nhân trực tiếp là tình trạng tiếp tục đối đầu căng thẳng giữa Tổng thống Klaus Iohannis và Thủ tướng Viorica Dancila.

   Ngày 26/05/2019, cùng với các nước thành viên EU khác, 51,07% cử tri Rumani đã tham gia bỏ phiếu để chọn 32 ghế đại diện cho nước này tại Nghị viện Châu Âu cho nhiệm kỳ 2019 – 2024. Kết quả chính thức cho thấy Đảng Tự do Quốc gia (PNL) – đảng đối lập lớn nhất đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ trong nước với 26,71% tỷ lệ phiếu bầu trong khi liên minh đối lập non trẻ – Liên Minh 2020 (USR + PLUS) gồm Liên minh Cứu quốc Rumani (USR) và Đảng PLUS của cựu Thủ tướng Dacian Ciolos giành được sự ủng hộ của cử tri các thành phố lớn và cộng đồng người Rumani sinh sống và làm việc tại nước ngoài (Diaspora) với 21,49% số phiếu. Đảng cầm quyền Dân chủ Xã hội (PSD) về thứ hai và chỉ giành được 22,85% số phiếu, giảm so với 45% số phiếu mà Đảng này giành được trong cuộc bầu cử Quốc hội của Rumani vào tháng 12 năm 2016 trong khi số phiếu ủng hộ đối tác liên minh của PSD là Liên Minh Dân chủ, Tự do Châu Âu (ALDE) tụt xuống dưới ngưỡng 5% (4,18%) và sẽ không có ghế tại Nghị viện Châu Âu. Cử tri trừng phạt PSD và ALDE do những hành động chống lại EU và các giá trị của EU cũng như hàng loạt những thay đổi trong lĩnh vực tư pháp làm suy yếu cuộc chiến chống tham nhũng tại Rumani.

   Song song với cuộc bầu cử Nghị viện Châu Âu tại Rumani ngày 26/05/2019, một cuộc trưng cầu dân ý chống lại những nỗ lực nhằm thay đổi hệ thống luật pháp của liên minh cầm quyền do Tổng thống Klaus Ionhannis khởi xướng cũng đã được tổ chức trong cùng thời điểm. Đa số người dân tham gia trưng cầu dân ý phản đối liên minh cầm quyền sửa đổi luật tư pháp và luật hình sự thông qua việc trả lời câu hỏi “đồng ý” hay “không đồng ý” với việc cấm Chính phủ ân xá hoặc giảm án cho những người bị kết án tham nhũng và sửa đổi luật pháp thông qua ban hành các sắc lệnh khẩn cấp (emergency ordinance). Cuộc trưng cầu dân ý đã kết thúc thắng lợi với số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu đạt tới 41,3% trong khi chỉ cần có 30% số cử tri tham dự thì đã có hiệu lực pháp lý. Số cử tri ủng hộ việc cấm Chính phủ ân xá hoặc giảm án cho những người bị kết án tham nhũng và sửa đổi luật pháp thông qua ban hành các sắc lệnh khẩn cấp (emergency ordinance) đạt tới trên 81% số phiếu trong khi số phiếu phản đối và không hợp lệ chỉ chiếm 13,5% và 5%. Kết quả này là đòn chí mạng giáng vào liên minh cầm quyền và giúp nâng cao uy tín của Tổng thống Klau Iohannis – người được cho là sẽ tiếp tục giữ vị trí này trong 05 năm tới khi cuộc bầu cử Tổng thống Rumani sẽ được tổ chức vào cuối năm nay.

   Thất bại của liên minh cầm quyền PSD – ALDE trong cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu và Trưng cầu dân ý ngày 26/05 cũng như mức án 3,5 năm tù giam của tòa án tối cao Rumani về tội danh tham nhũng dành cho Chủ tịch Hạ viện kiêm chủ tịch đảng PSD Liviu Dragnea vào ngày 27/05/2019 (chỉ một ngày sau bầu cử Nghị viện châu Âu) là những chỉ dấu báo hiệu sự bất ổn trên chính trường Rumani trong thời gian tới.

   Mặc dù tình hình chính trị Rumani luôn trong tình trạng đối đầu căng với không ít rủi ro, bất ổn, song Rumani dưới sự lãnh đạo của liên minh cầm quyền PSD – ALDE mà cụ thể là chính phủ do Thủ tướng Viorica Dancila đứng đầu đã hoàn thành tốt vai trò chủ tịch luân phiên Hội đồng Châu Âu (European Council) trong 06 tháng đầu năm 2019. Trong đó không thể không nhắc đến những đóng góp tích cực của Chính phủ này trong việc thúc đẩy quan hệ song phương với Việt nam cũng như việc ký kết EVFTA tại Hà nội ngày 30/06 vừa qua.

   Vào ngày 26/8, Chủ tịch đảng ALDE kiêm chủ tịch Thương viện Rumani Calin Popescu-Tariceanu tuyên bố rút khỏi liên minh cầm quyền với PSD để thành lập liên minh với đảng Pro Romania của cựu Thủ tướng Victor Ponta và chỉ thị cho 04 bộ trưởng của ALDE trong nội các của Thủ tướng Dancila phải từ chức. Tuy nhiên, chỉ có 03 bộ trưởng thực hiện quyết định này gồm Bộ trưởng năng lượng Anton Anton, Bộ trưởng Môi trường Gratiela Gavrilescu, Bộ trưởng phụ trách quan hệ với Quốc hội Viorel Ilie còn Bộ trưởng ngoại giao mới được bổ nhiệm – Ramona Manescu tuyên bố sẽ tiếp tục sát cánh cùng Thủ tướng Dancila. Sau đó Chủ tịch đảng ALDE Calin Popescu Tariceanu cũng từ chức Chủ tịch Thương viện.  

   Chính trường Rumani thực sự rơi vào trạng thái bất ổn khi Quốc hội Rumani, theo đề nghị của phe đối lập đứng đầu là PNL được hậu thuẫn bởi Tổng thống Klaus Iohannis, đã tiến hành bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với chính phủ của Thủ tưởng Dancila  vào ngày 10/10 vừa qua. Với kết quả 238 phiếu ủng hộ – vượt 05 phiếu so với yêu cầu tối thiểu (233), cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm lần này đã đặt dấu chấm hết cho chính phủ đương nhiệm của Thủ tướng Dancila. Tuy nhiên chính phủ đương nhiệm sẽ tiếp tục tạm thời điều hành đất nước (interim government) trong thời gian chờ thành lập chính phủ mới. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 5 năm 2012 và là lần thứ hai trong vòng 30 năm qua, phe đối lập đã thành công trong việc lật đổ chính phủ bằng bỏ phiếu bất tín nhiệm.

   Ngày 15/10, Tổng thống Iohannis đã chỉ định lãnh tụ của PNL Ludovic Orban đứng ra thành lập chính phủ mới. Song khả năng chính phủ do PNL thành lập sẽ khó nhận được sự ủng hộ của quốc hội do số nghị sỹ của đảng này và USR-PLUS hiện chỉ chiếm chưa tới 1/3 tại quốc hội trong khi các đảng phái khác dù ủng hộ cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm do PNL khởi xướng lại không ủng hộ chính phủ do PNL điều hành. Tuy nhiên, ngày 4/11 vừa qua với 240 phiếu thuận (vượt 07 phiếu so với yêu cầu), Quốc hội Rumani đã chính thức công nhận chính phủ mới gồm 16 thành viên nội các (01 Phó thủ tướng và 15 Bộ trưởng) do ông Ludovic Orban – Chủ tịch đảng Tự do Quốc gia (PNL) làm thủ tướng. Ông Ludovic Orban đã chính thức trở thành thủ tướng thứ 16 của Rumani kể từ khi chế độ cộng sản tại Rumani sụp đổ (1989) và là thủ tướng thứ 68 trong 160 năm lịch sử của nước này. Chính phủ mới sẽ thay thế chính phủ của thủ tướng Viorica Dancila bị Quốc hội miễn nhiệm trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ngày 10/10/2019.

   Điều này cho thấy sau quá trình hiệp thương và chấp nhận yêu sách của một số chính đảng, PNL đã giành được sự ủng hộ của các đảng phái chính trị chủ chốt như ALDE, PMP, UDMR cũng như của các nghị sỹ đại diện cho các nhóm sắc tộc thiểu số. Thậm chí có đến 08 nghị sỹ của Pro Romania của cựu Thủ tướng Victor Ponta và không ít các nghị sỹ của PSD đã bỏ phiếu ủng hộ trong khi PSD và Pro Romania đã chính thức tuyên bố tẩy chay cuộc bỏ phiếu thông qua chính phủ mới.

   Vào tối ngày 4/11/2019 chính phủ mới đã tuyên thệ nhậm chức tại dinh Tổng thống và có phiên họp đầu tiên vào ngày thứ ba, 5/11/2019. Với 01 Phó Thủ tướng và 15 Bộ trưởng, chính phủ mới được thành lập của Thủ tướng Ludovic Orban được coi là tinh gọn nhất trong vòng 30 năm qua.

   Thủ tướng Ludovic Orban đã khẳng định trước quốc hội rằng chính phủ của ông sẽ tập trung ưu tiên các vấn đề như điều chỉnh ngân sách năm nay để có thể chi trả tiền lương và tiền hưu trí trong lĩnh vực công cho đến hết năm, chuẩn bị dự trữ năng lượng cho mùa đông, đề cử ứng viên cho chức vụ cao ủy của EU, dự thảo ngân sách năm 2020. Chính phủ cũng giải quyết các vấn đề liên quan tới lĩnh vực tư pháp như thay đổi sắc lệnh khẩn cấp liên quan tới việc cho phép các thẩm phán nghỉ hưu sớm mà điều này có thể gây cản trở cho các hoạt động tư pháp địa phương cũng như bổ nhiệm các công tố viên trưởng. Ngoài ra, chính phủ mới cũng sẽ áp dụng các biện pháp khẩn cấp để Rumani không bị mất khoản tiền 600 triệu Euro do quỹ EU tài trợ trong năm nay cũng như khoản tài trợ 3,2 tỷ Euro của quỹ này trong năm tới do không có hợp đồng phát triển các dự án hạ tầng lớn nào được ký kết cho tới thời điểm này.

   Ngày 10/11/2019 và ngày 24/11/2019, cử tri Rumania đã tiến hành bỏ phiếu bầu Tổng thống vòng một và vòng hai cho nhiệm kỳ 2019 – 2024 mà thực chất là cuộc cạnh tranh gay gắt giữa hai ứng viên nặng ký nhất là Tổng thống đương nhiệm Klaus Ionhannis và cựu Thủ tướng Viorica Dancila kiêm Chủ tịch đảng PSD – Người vừa bị phế truất trong cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm tại Quốc hội ngày 15/10/2019. Với số phiếu ủng hộ 66% so với 34% của ứng cử viên Viorica Dancila, Tổng thống đương nhiệm Klaus Ionhannis đã giành chiến thắng áp đảo và trở thành tổng thống Rumani nhiệm kỳ thứ hai liên tiếp. Đây là thất bại nặng nề nhất của PSD trong suốt 30 năm qua. Kết quả của cuộc bầu cử này đã đẩy PSD thành đảng đối lập chính tại quốc hội (PSD hiện có gần 500.000 đảng viên và chiếm gần ½ tổng số ghế tại quốc hội và trên một nửa trong tổng số 3.200 thị trưởng tại các thành phố và huyện lỵ của Rumani) và gây chia rẽ sâu sắc trong nội bộ đảng PSD. Sau bầu cử, cựu Thủ tướng Viorica Dancila đã phải từ chức Chủ tịch PSD để duy trì đoàn kết nội bộ và người kế nhiệm vai trò thủ lĩnh tạm thời của đảng này cho đến khi PSD tổ chức đại hội là Chủ tịch Hạ viện Marcel Ciolacu.

   Mặc dù chính phủ mới do PNL lãnh đạo đứng đầu là Thủ tướng Ludovic Orban được thành lập từ ngày 4/11/2019, song đây là chính phủ thiểu số tại quốc hội nên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thông qua các quyết sách về kinh tế, xã hội. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của các Bộ vẫn đang trong quá trình hoàn thiện (tất cả các bộ đều chưa bổ nhiệm được các thứ trưởng phụ trách).   

   Để đảm bảo cho chính phủ hiện nay hoạt động một cách hiệu quả, Tổng thống Klaus Ionhannis và Thủ tướng Ludovic Orban đang vận động để tiến hành bầu cử quốc hội sớm vào tháng năm này cùng thời điểm với cuộc bầu cử địa phương (Theo quy định, bầu cử quốc hội Rumani sẽ được tiến hành vào tháng 12/2020). Tuy nhiên, theo Hiến pháp Rumani, bầu cử Quốc hội sớm chỉ được tiến hành khi Tổng thống tuyên bố giải tán Quốc hội sau khi Quốc hội trong hai lần liên tiếp không ủng hộ việc thành lập chính phủ mới do Tổng thống đề cử trong vòng 60 ngày.

   Bên cạnh những bất ổn về chính trị, Rumani cũng đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt lao động do lượng người Rumani bỏ ra sinh sống tại các nước EU ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Để khắc phụ tình trạng thiếu hụt lao động trong nước, Rumani tăng cường nhập khẩu lao động nước ngoài. Theo thông báo của Bộ Lao động Romani, vào ngày 27/08/2019 Chính phủ Rumani đã phê chuẩn hạn ngạch cho phép tiếp nhận thêm 10.000 lao động nước ngoài vào làm việc tại Rumani nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước. Bộ Lao động giải thích rằng quyết định cấp hạn ngạch bổ xung được thông qua sau khi số lượng giấy phép lao động được cấp trong 08 tháng đầu năm 2019 tăng 165% so với số giấy phép được cấp trong 06 tháng đầu năm 2018.

   Từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 23 tháng 8 năm 2019, đã có 19.173 đơn xin cấp giấy phép lao động (work permits) được đăng ký. Trong đó 16.540 giấy phép đã được cấp, 818 trường hợp bị từ chối và 1.815 trường hợp đang được xem xét.

   Chỉ tính riêng 06 tháng đầu năm 2019, Rumani đã tiếp nhận hơn 11.000 lao động đến từ các nước ngoài khu vực EU. Theo Cơ quan Tổng Thanh tra Nhập cư Rumani (IGI), hầu hết số lao động này đến từ Việt nam (hơn 2.000) và đa phần còn lại đến từ Cộng hòa Moldova, Sri Lanka, Nepal và Ấn độ.

   Tính chung, năm 2019 Chính phủ Rumani đã cấp hạn ngạch giấy phép cho 30.000 lao động đến từ khu vực ngoài EU (mức cao nhất kể từ năm 2014). Trong thực tế, số lao động đến từ khu vực ngoài EU năm 2019 đạt trên 23.000 người, hầu hết từ Việt nam, Thổ Nhĩ Kỳ, Nepal và Trung quốc. Hiện có trên 5.200 lao động đến từ Việt nam được cấp phép làm việc tại Rumani (chiếm 22% tổng số lao động đến từ ngoài khu vực EU), 2.800 đến từ Thổ Nhĩ Kỳ và 2.200 đến từ Nepal.

   Đáng lưu ý là số lao động bất hợp pháp tại Rumani năm 2019 đến từ các nước ngoài EU tăng ít nhất gấp đôi so với 2018 và gấp ba lần so với 2017 và 2016.

   Hiện Rumani có trên 100.000 lao động nước ngoài bao gồm cả khu vực EU và ngoài EU. Trong đó trên 25.000 đến từ khu vực ngoài EU mà  hầu số lao động này đến từ Việt nam, Nepal, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung quốc và Cộng hòa Moldova.

 

1.2 – Về kinh tế

   Việc Chính phủ thông qua sắc lệnh khẩn cấp (Emergency Ordinance) gây tranh cãi OUG 114/2018 (còn được gọi là “Greed Tax”) vào ngày 21/12/2018 và có hiệu lực từ 01/01/2019 mà theo giới ngân hàng và doanh nghiệp sẽ tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng lạm phát. Theo Sắc lệnh này, mức thuế đánh vào tài sản ngân hàng (bank assets) sẽ là 0,3%/quý (1,2%/năm) dựa trên biên độ dao động lãi suất liên ngân hàng (ROBOR); mức thuế đánh vào doanh thu của các công ty năng lượng là 2% và các công ty viễn thông là 3% (mức cũ là 0,4%) và khống chế giá trần mặt hàng gas bán ra của các nhà sản xuất trong nước ở mức 68 RON/Mwh trong 03 năm kể từ 2019 (trong khi mức giá giao dịch tự do trên thị trường hiện là 95 RON/MWh).

   Theo CNSP (National Commission for Strategy & Prognosis), GDP Rumani năm 2019 sẽ tăng ở mức 5,5% đạt 1.031 tỷ RON (217,5 tỷ Euro) và GDP đầu người đạt 11.233 Euro so với 202,9 tỷ Euro và 10.417 Euro của năm 2018. Song nhiều nhà phân tích dự bào rằng GDP Rumani năm 2019 sẽ chỉ đạt mức tăng trưởng 3% do áp dụng thuế mới với ngân hàng, năng lượng và viễn thông (Sắc lệnh khẩn cấp OUG 114/2018). Theo dự báo của ngân hàng Trung ương Rumani, lạm phát 2019 sẽ ở mức 4,2%. Còn theo dự báo của EC (European Council), tăng trưởng GDP của Rumani sẽ là 3,3% năm 2019 và 3,1% năm 2020, thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ ở mức 5,2% năm 2019 và 5,3% vào năm 2020.

   Theo số liệu của Viện Thống kê Quốc gia (INS), GDP của Rumani quý I năm 2019 tăng 5,0% so với cùng kỳ 2018 (seasonally adjusted : 5,1%)  và tăng 1,3% so với quý trước chủ yếu do tăng trưởng trong lĩnh vực ITC (+11%); chuyên môn, khoa học kỹ thuật (+9,6%); bán buôn, bán lẻ, hậu cần và HoReCa (+6,9%)  và xây dựng (+6,6%). Đây là mức cao nhất kể từ quý 4 năm 2017 và vượt mọi dự đoán trước đó. Tuy nhiên Rumani vẫn là nước nghèo thứ hai trong EU với mức GDP đầu người năm 2018 khoảng 10.400 Euro (chỉ trên Bulgaria).  Xuất khẩu quý I/2019 đạt  17,53 tỷ Euro (tăng 3,2% so với cùng kỳ 2018) và nhập khẩu đạt 21,18 tỷ Euro (tăng 7,4% so với cùng kỳ 2018); Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giảm 20% chỉ đạt 1,24 tỷ Euro so với 1,55 tỷ Euro của quý I/2018; Công nghiệp tăng 0,6% do nhu cầu giảm và lượng tồn kho tăng; Du lịch quốc tế quý I/2019 đạt 443.900 khách (giảm 7,7% so với 2018) với lượng khách chủ yếu đến từ Italy, Israel, Đức, Pháp. Du lịch trong nước tăng 9,7% đạt 1,87 triệu lượt người; Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng 18% lên 1,21 tỷ Euro; Thâm hụt ngân sách quý I/2019 ở mức 5,5 tỷ RON (1,16 tỷ Euro) trong đó thu ngân sách tăng 12,5% đạt 74,7 tỷ RON (15,9 tỷ Euro) và chi ngân sách tăng 13,2% đạt 80,2 tỷ RON (17,06 tỷ Euro).

   Bước sang quý II/2019, kinh tế Rumani tăng trưởng chậm lại với mức tăng trưởng GDP chỉ đạt 4,4% (Seasonally adjusted đạt 4,6%) so với mức tăng trưởng 5% của quý I/2019. Tăng trưởng GDP quý II/2019 chủ yếu do tăng trưởng trong các ngành xây dựng (21,1%); sửa chữa đồ gia dụng (9,9%); ITC (9%); bất động sản (5,9%) trong khi lĩnh vực công nghiệp vốn chiếm gần ¼ GDP lại giảm 0,7%; nông nghiệp giảm 1,7% và ngân hàng & bảo hiểm giảm 0,9%.

   Theo số liệu của Viện Thống kê Quốc gia Rumani, GDP 06 tháng đầu năm 2019 của Rumani tăng 4,7% so với cùng kỳ 2018 (Seasonally adjusted : 4,8%); xuất khẩu 06 tháng đạt 34,9 tỷ Euro (tăng 2,7% so với cùng kỳ 2018) và nhập khẩu đạt 42,6 tỷ Euro (tăng 5,7%) – Thâm hụt thương mại ở mức 7,7 tỷ Euro (tăng 21,8% so với cùng kỳ 2018). Cũng trong 06 tháng đầu năm 2019, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2,3 tỷ Euro; Du lịch 06 tháng đạt 5,26 triệu khách (giảm 4,4% so với cùng kỳ 2018) trong đó khách quốc tế chỉ đạt 1,27 triệu khách (giảm 15,9%) và khách du lịch trong nước đạt 3,99 triệu (giảm 0,9%); Bán lẻ tăng 6,8% so với cùng kỳ 2018; Thâm hụt tài khoản vãng lai ở mức 5,5 tỷ Euro (tăng 38,1% so với 2018).

   Ngày 5/8/2019, Ngân hàng Trung ương Rumani công bố duy trì lãi suất cơ bản ở mức 2,5% nhằm bơm các khoản tín dụng ngắn hạn vào thị trường tiền tệ.

   GDP Rumani quý III/2019 chỉ tăng 3% (seasonally adjusted đạt 3,2%). Đây là mức tăng thấp nhất kể từ tháng 4/2014. Tính chung 09 tháng đầu năm 2018, GDP của Rumani tăng 4,0% (seasonally adjusted 4,1%); thâm hụt ngân sách 09 tháng tăng 60% so với cùng kỳ 2018 (5,68 tỷ Euro) và chiếm 2,62% GDP. Theo dự báo của Ngân hàng Trung ương Rumani, GDP Rumani năm 2019 sẽ tăng ở mức 3,8% (so với 4,2% dự báo trước đó) và lạm phát sẽ ở mức 4,2%.

   Trong quý IV/2019, GDP Rumani tăng trưởng trở lại đạt 4,3% so với cùng kỳ 2018 và tăng 1,5% so với quý III/2019.

 

2 – Triển vọng kinh tế nước sở tại năm 2020 và các năm tiếp theo.

 

Theo dự báo của EU, tăng trưởng GDP của Rumani sẽ đạt 3,8% năm 2020 và 3,5% năm 2021. Do đó mức tăng GDP của Rumani trong năm 2020 sẽ đứng thứ 2 sau Malta (4,0%); tiếp theo là Ireland (3,6%); Poland (3,3%); Hungary (3,2%). Trong khi mức tăng trưởng kinh tế chung của EU sẽ ở mức 1,4% và Euro zone ở mức 1,2% trong năm 2020 và 2021. Nền kinh tế lớn nhất EU là Đức sẽ hồi phục ở mức 1,1% trong năm 2020 và 2021. Cũng theo EU, lạm phát của Rumani sẽ ở mức 3,5% (2020) và 2,5% (2021); thất nghiệp 4,2% (2020) và 4,3% (2021); thâm hụt ngân sách chiếm 4,4% và 6,1% vào năm 2020 & 2021; xuất khẩu hàng hóa dịch vụ tăng 3,7% (2020) & 3,6% (2021) và nhập khẩu hàng hóa dịch vụ tăng 5,6% (2020) & 5,1% (2021).

 

 

II/ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI RUMANI NĂM 2019

 

1. Chính sách kinh tế đối ngoại:

– Tập trung chủ yếu vào trao đổi thương mại nội khối (Intra-EU Trade)

– Chú trọng phát triển quan hệ thương mại, đầu tư với Mỹ, Úc, Canada, Nhật bản, Hàn quốc và một số nước khác thuộc khu vực châu Âu.

 

2. Một số nét chính về kinh tế  Rumani năm 2019:

   Theo số liệu của Viện Thống kê Quốc gia Rumani (INS), Real GDP của Rumani năm 2019 tăng 4,1% so với 2018 (vượt dự báo trước đó của EC và các tổ chức quốc tế); FDI Rumani năm 2019 đạt 5,3 tỷ Euro (tăng 2,5% so với cùng kỳ 2018); Thâm hụt ngân sách cả năm ở mức 4,6% (vượt mức giới hạn 3% của EU Treaty); Thâm hụt tài khoản vãng lai 10,5 tỷ Euro (chiếm 4,7% GDP); Xuất khẩu hàng hóa cả năm 2019 đạt 69,002 tỷ Euro (tăng 1,89% so với 2018) và nhập khẩu đạt 86,283 tỷ Euro (tăng 4,16%). Thâm hụt thương mại ở mức 17,280 tỷ Euro.

   Ecommerce của Rumani năm 2019 đạt 4,3 tỷ Euro (tăng 22% so với 2018). Tuy nhiên, chỉ có 23% người Rumani mua hàng trên mạng năm 2019 – đứng áp chót EU, chỉ trên Bulgaria với 22% (Số liệu này chỉ tính mua hàng trên mạng, không gồm các dịch vụ như vé máy bay, du lịch, khách sạn…)

   Sản xuất ô tô của Rumani tăng trưởng 3% năm 2019 đạt 490.528 xe. Trong đó Ford sản xuất 141.000 xe (tương đương mức 2018) và Dacia sản xuất 349.528 xe (tăng 4% so với 2018).

 

3. Xuất – nhập khẩu hàng hóa:

*** Tổng kim ngạch xuất – nhập khẩu hàng hóa năm 2019 đạt 155,286 tỷ Euro (+3,14% so với 2018). Trong đó:

– Xuất khẩu : 69,002 tỷ Euro (+ 1,89% so với 2018)

– Nhập khẩu : 86,283 tỷ Euro (+ 4,16% so với 2018)

– Trade balance : – 17,280 tỷ Euro

*** Ghi chú : kim ngạch trao đổi thương mại nội khối (Intra – EU Trade) chiếm khoảng 76,57%

 

*** Thị trường chủ yếu:   

Đơn vị tính : Triệu Euro

 

 

III.  QUAN HỆ THƯƠNG MẠI SONG PHƯƠNG VIỆT NAM – RUMANI NĂM 2019

 

*** Thương mại hai chiều Việt nam – Rumani 2019: 

Theo số liệu của Tổng cục Ngoại thương Rumani, tổng kim ngạch thương mại hai chiều Việt nam – Rumani năm 2019 đạt : 267,206 triệu USD (tăng 24,33% so với 2018). Trong đó :

– Xuất khẩu của Việt nam sang Rumani : 207,589 triệu USD (tăng 22,21%)

– Nhập khẩu của Việt nam từ Rumani: 59,617 triệu USD (tăng 32,36%)

– Trade Balance : + 147,972 triệu USD (nghiêng về Việt nam)

 

1.  Xuất khẩu của Việt nam sang Rumani:

– Xuất khẩu của Việt Nam sang Rumani 2019 đạt 207,589 triệu USD (tăng 22,21% so với 2018) với các sản phẩm chính như : máy móc thiết bị điện và điện tử; Máy móc thiết bị cơ khí và linh kiện; Sản phẩm dệt may; Giày dép; Cà phê; Thực phẩm chế biến; Đồ gỗ nội ngoại thất; Nhôm và sản phẩm nhôm; Nhựa và sản phẩm nhựa; Phương tiện vận tải & phụ tùng; Cao su & sản phẩm cao su, thủy hải sản, đồ gốm sứ…

 

*** Kim ngạch 10 mặt hàng  XK chính của Việt nam 


*** Kim ngạch một số sản phẩm XK khác:

Giày dép các loại (HS64): 4,579 triệu USD;

Thủy hải sản đông lạnh (HS03): 4,451 triệu USD;

Sản phẩm dệt may (HS 61 +62 +63 ): 4,544 triệu USD;

Da và SP da (HS42): 3,897 triệu USD;

Cao su và sản phẩm cao su: 4,019 triệu USD;

Thực phẩm chế biến khác (HS21): 2,828 triệu USD;

Thịt và hải sản chế biến (HS16): 2,753 triệu USD;

Sản phẩm gốm sứ (HS69) : 1,062 triệu USD.

 

2. Nhập khẩu của Việt Nam từ Rumani:

   Nhập khẩu của Việt Nam từ Rumani năm 2019 đạt 59,617triệu USD (tăng 32,36% so với 2018) với các sản phẩm chính như :  Lúa mỳ; Phân bón; Dược phẩm; Nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; Máy móc thiết bị; Gỗ;  Hóa chất; Nội tạng động vật; Len & lông thú; Thực phẩm chế biến…

 

*** Kim ngạch 10 mặt hàng nhập khẩu chính của Việt nam:

 

 

 

Bucaret, 07/07/2020.

Hoàng Anh Dũng – Tham tán Thương mại ĐSQVN tại Rumani.

 

 

 

 

 

 

Liên kết website